Điều kiện tự nhiên
TỌA ĐỘ ĐỊA LÝ :
Xã Quốc Oai thuộc huyện Đạ Huoai, tỉnh Lâm Đồng có tọa độ địa lý nằm trong khoảng từ 107030’00 đến 1070 33’00 kinh độ Đông và 107034’00 đến 107038’00 vĩ độ Bắc. Xã nằm ở phía Đông Bắc của huyện Đạ Huoai có vị trí tiếp giáp như sau: phía Đông giáp xã Mỹ Đức; phía Tây xã An Nhơn; phía Nam giáp thị trấn Đạ Tẻh; phía Bắc giáp xã Lộc Bắc, huyện Bảo Lâm.
Với vị trí địa lý nằm tiếp giáp thị trấn Đạ Tẻh (trung tâm huyện), tiếp giáp với xã Mỹ Đức (cửa ngõ phía Bắc huyện Đạ Huoai), tương lai có đường vành đai kết nối Quốc Oai - Mỹ Đức đi Bảo Lâm - Bảo Lộc qua đường tỉnh lộ 725 (726 QH) tạo điều kiện thuận lợi cho xã trong phát triển kinh tế cũng như trong giao lưu với các vùng khác.
KHÍ HẬU THỜI TIẾT:
Khí hậu xã Quốc Oai mang đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, nền nhiệt độ cao quanh năm, không có mùa đông lạnh, không có gió bão, lượng mưa lớn nhưng không đều giữa các tháng tạo cho xã có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau.
Tổng lượng mưa hàng năm trung bình 2.000-2.500 mm/năm, mùa mưa chiếm đến 90% tổng lượng nước cả năm. Xét về khía cạnh môi trường đất, lượng mưa lớn, tập trung làm tăng cường dòng chảy bề mặt và xói mòn dẫn tới sự suy thoái nhanh chóng môi trường đất. Do đó cần có biện pháp khắc phục hiện tượng trên trong sản xuất nông - lâm nghiệp nhất là ở các khu vực có độ dốc cao.
Ngược lại vào mùa khô hầu như không có mưa, lượng bốc hơi lớn tạo ra sự mất cân bằng ẩm độ nghiêm trọng. Đặc điểm này cũng là một hạn chế đối với sản xuất nông nghiệp, làm giảm năng suất cây trồng, đặc biệt là ở các vùng không được tưới.
Nhiệt độ không khí trung bình hàng năm cao: 25-270C, do nhận được nhiều bức xạ mặt trời và ít chịu ảnh hưởng của gió mùa phương Bắc. Số giờ nắng trung bình 9-10 giờ/ngày. Lượng bức xạ mặt trời tương đối cao: mùa khô khoảng 400-500 calo/cm2/ngày, mùa hạ khoảng 300-400 calo/cm2/ngày.
ĐỊA HÌNH:
Nhìn chung địa hình của xã Quốc Oai thấp dần từ Bắc xuống Nam. Phía Bắc là vùng núi thấp có độ cao trung bình từ 400-500m, mức độ chia cắt mạnh, độ dốc trung bình khoảng 20-250. Phía Nam khá bằng phẳng, độ dốc khoảng 30, xen với các đồi thấp độc lập. Xã có 3 dạng địa hình: địa hình núi cao và địa hình bằng phẳng.
- Dạng địa hình núi cao: phân bố ở khu vực phía Bắc và Tây Bắc xã, chủ yếu là đất lâm nghiệp và cây công nghiệp, dạng địa hình này chiếm trên 80% tổng diện tích tự nhiên của xã.
- Dạng địa hình thấp trũng lượn sóng: phân bố ở khu vực phía Đông xã.
- Dạng địa hình đồi bát úp: phân bố ở khu vực phía Tây xã.
THỔ NHƯỠNG:
Theo kết quả dự án điều tra đánh giá đất trên địa bàn huyện Đạ Huoai do Trung tâm nghiên cứu đất, phân bón và môi trường - Viện Khoa học đất năm 2005 cho thấy, trên địa bàn xã Quốc Oai có 02 nhóm đất chính gồm: Đất đỏ vàng và đất thung lũng dốc tụ.
Bảng diện tích các loại đất xã Quốc Oai:
TT |
Tên đất |
Ký hiệu |
D.tích (ha) |
Tỷ lệ (%) |
I |
Nhóm đất đỏ vàng |
F |
8.513,90 |
98,62 |
I.1 |
Nhóm phụ đất nâu vàng trên phù sa cổ (PSC) |
Fp |
389,34 |
4,51 |
I.2 |
Nhóm đất phụ nâu vàng trên PSC biến đổi do trồng lúa |
Fpl |
51,89 |
0,60 |
I.3 |
Nhóm đất đỏ vàng trên đá phiến sét |
Fs |
8.072,67 |
93,51 |
II |
Nhóm đất dốc tụ |
D |
41,43 |
0,48 |
III |
Sông suối |
|
77,77 |
0,90 |
|
Tổng diện tích |
|
8.633,10 |
100 |
- Nhóm đất đỏ vàng: Có diện tích 8.513,90 ha, chiếm 98,62% diện tích tự nhiên, với 03 đơn vi phân loại như sau:
+ Đất nâu vàng trên phù sa cổ (Fp): Có diện tích 389,34 ha, chiếm 4,59% diện tích tự nhiên của xã. Loại đất này được hình thành do phù sa cổ cách đây khoảng 1 triệu năm. Đất có màu nâu vàng đặc trưng, tầng đất dày, tơi xốp, cấu trúc viên, các tầng đất sâu có gặp lớp đá cuội. Đất có thành phần cơ giới từ thịt trung bình đến thịt nặng, hàm lượng các chất dinh dưỡng cao, rất thích với trồng cây lâu năm, đồng thời cũng thích hợp với các loại cây trồng cạn như mía, lạc, rau đỗ các loại…
+ Đất nâu vàng trên phù sa cổ, biến đổi do trồng lúa nước (Fpl): diện tích 51,89 ha. chiếm 0,6% diện tích tự nhiên của xã. Đất được hình thành trên phù sa cổ, đất bị biến đổi do ngập nước, hình thành Gley ở tầng dưới, một số khu vực các tầng đất sâu có kết von dưới 30%. Tại xã, loại đất này chưa biến đổi rõ do vùng lúa hình thành chưa lâu. Đất thích hợp cho việc sản xuất lúa 2-3vụ; tuy nhiên không nên độc canh cây lúa trên loại đất này, cần luân canh với các loại cây họ đậu để cải tạo đất.
+ Đất phụ đỏ vàng trên đá phiến sét (Fs): Có diện tích 8.072,67 ha, là loại đất chủ yếu trên địa bàn xã (93,51% diện tích tự nhiên của xã). Đất được hình thành do đá mẹ là phiến sét phong hoá. Đất có thành phần cơ giới thịt trung bình đến thịt nặng, có màu vàng đỏ, tầng đất dày trung bình trên 50cm, lẫn nhiều mảnh đá phiến sét. Phần lớn diện tích đất là đất rừng; một số khu vực sản xuất nông nghiệp với cây trồng khá đa dạng, cây ăn quả, điều, bắp, đậu. Nhìn chung, do tầng mỏng lại phân bố ở địa hình dốc (>8%), vì vậy, ở những khu vực còn rừng nên được khoanh nuôi bảo vệ rừng để bảo vệ đất; ở khu vực đất nông nghiệp nên duy trì vùng trồng các cây lâu năm, đồng thời có kế hoạch chuyển đổi dần những khu vực cây hàng năm sang cây lâu năm, để hạn chế các quá trình xói mòn rửa trôi đất.
- Nhóm đất dốc tụ: diện tích có 41,43 ha, chiếm 0,48% diệt tích tự nhiên của xã. lệ nhỏ trong tổng diện tích tự nhiên. Phân bố rải rác, dưới dạng những dải hẹp ven hợp thủy và thung lũng vùng đồi núi, ngoại trừ thung lũng vùng bazan. Nhìn chung, đất dốc tụ có độ phì trung bình, chua, song lại được phân bố ở vị trí địa hình thấp bằng, vì vậy loại đất này khá thích hợp để bố trí chuyên canh lúa nước, chuyên canh cây trồng cạn hàng năm hoặc luân canh lúa nước với cây trồng cạn hàng năm.
TÀI NGUYÊN NƯỚC:
a) Nước mặt: Nguồn nước mặt trên địa bàn xã được cung cấp bởi các nguồn chính như suối Đạ Nhar, suối Đạ Miss, nguồn nước mưa tại chỗ,…ngoài ra trên địa bàn có hồ thôn 5 và hệ thông kênh tưới hồ Đạ Tẻh, đây là một trong những nguồn cung cấp nước chính, phục vụ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp. Chất lượng đạt tiêu chuẩn sinh hoạt, có thể khai thác nước cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và sinh hoạt của người dân.
b) Tài nguyên nước ngầm: Hiện chưa có tài liệu nào đánh giá về trữ lượng cũng như chất lượng nguồn nước ngầm tại xã. Tuy nhiên, theo kết quả điều tra của chương trình Tây Nguyên II (48C - II) và chương trình KC - 12 (năm 1993) của Liên đoàn Địa chất - Thủy văn thực hiện sơ bộ đánh giá tài nguyên nước cho thấy gồm có 02 phức hệ chính là: Phức hệ chứa nước lỗ hổng các trầm tích nhiều nguồn gốc Haloxen, thành phần phức hệ gồm: cuội, sạn, bột kết và than bùn, chiều dày tầng nước từ 1 - 25 m, lưu lượng mạt lộ nước từ 0,01 - 6,89 l/s và Phức hệ chứa nước khe nứt các trầm tích lục nguyên, phun trào Jura muộn và Kreta muộn, thành phần phức hợp gồm: Đá Đaxit, Riolit tầng trên, đá cát và bột kết tầng dưới. Bề mặt phong hóa là sét pha cát dày 0,5 - 5 m, chiều dày cả phức hệ khoảng 450 m, lưu lượng các mạt lộ nước 0,06 - 0,64 l/s. Về chất lượng nguồn nước, theo kết quả điều tra của Dự án Quy hoạch thủy lợi và nước sinh hoạt nông thôn vùng Đạ Huoai - Đạ Tẻh do Xí nghiệp Tư vấn Thiết kế Xây dựng Thủy lợi 3 thực hiện tháng 11/2000, cho thấy:
- Nước ngầm tầng mặt (giếng đào): Nước ngầm tầng mặt và nước sát mặt (ngầm bán áp, độ sâu < 20m) thường có độ cứng khá cao (>50mg CaCO3/lit), mực nước thay đổi theo vùng và theo mùa; Do được điều tiết bởi hồ Đạ Tẻh nên có mực nước ngầm tương đối nông, độ sâu có nước của các giếng đào từ 2 - 6 m, vùng đồi núi có mực nước ngầm từ 15 - 20 m. Vào mùa mưa, mực nước cách mặt đất từ 1 – 2 m, nhưng về mùa khô mực nước hạ xuống cách mặt đất 5 - 6 m ở những khu vực bào mòn tích tụ và 7 - 12 m ở những khu vực tích tụ xâm thực.
- Nước ngầm tầng sâu (giếng khoan với độ sâu > 20 m): Ở độ sâu >20 m, nước ngầm có độ cứng và độ kiềm khá cao (độ cứng toàn phần 1.950 mg CaCO3/lit, độ kiềm toàn phần 1.325 mg CaCO3/lít, môi trường axit 0,8 mg oxy/lit). Hiện nay phần lớn dân cư ở các xã vẫn còn sử dụng nước ngầm khai thác từ các giếng đào, giếng khoan cho sinh hoạt hàng ngày, đây là một trong những điểm đáng lưu ý vì với chất lượng nước như vậy đòi hỏi phải có các biện pháp kỹ thuật để xử lý trước khi sử dụng.
- Hệ thống thủy lợi: Hiện nay xã đang được sử dụng nước tưới từ hồ Đạ Tẻh và hồ thôn 5 xã Quốc Oai và các công trình hồ trữ nước nhỏ lẻ do nhân dân tự đầu tư.
Nhận xét:
- Nhìn chung, chất lượng nước mặt của các suối thuộc loại nước HCO3-CL-Na hoặc CLHCO3-Na, đạt tiêu chuẩn sinh hoạt.
- Về mùa khô các sông suối có lưu lượng khá dồi dào do độ che phủ của thảm thực vật trên lưu vực còn khá cao. Trên các suối có rất nhiều vị trí có thể đắp hồ chứa, đập dâng, trạm bơm để cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt. Tuy nhiên, do địa hình phức tạp, vùng tưới hạn chế, chi phí tưới cao.
- Về mùa mưa, do mưa lớn và tập trung, lòng các sông suối dốc nên nước mưa tập trung về nhanh, trong khi khả năng tiêu thoát của các khe, suối hạn chế nên đã gây tình trạng ngập lũ trên diện rộng ở khu vực địa hình thấp ven suối Đạ Nhar và một số thôn, làm ảnh hưởng đến sản xuất của nhân dân.
Một góc hồ thuỷ lợi thôn Hà Phú
TÀI NGUYÊN RỪNG:
1. Thực vật rừng:
Diện tích đất lâm nghiệp có 6.857,75 ha, chiếm 79,32% diện tích tự nhiên toàn xã, trong đó rừng sản xuất có 6.844,35 ha (rừng trồng và đất phát triển rừng trồng 2.891,62 ha) và rừng đặc dung có 3,40 ha (vùng đệm vườn quốc gia Cat Tiên). Diện tích rừng phân bố tập trung ở khu vực phía Tây, Tây Bắc. Thực vật rừng ở Quốc Oai thuộc kiểu rừng nhiệt đới gồm: rừng như rừng lá rộng thường xanh; rừng lá kim; rừng hỗn giao. Cây rừng tự nhiên chủ yếu là các loại cây có giá trị kinh tế thuộc họ dầu như Dầu rái, Sao đen, Vên vên…; họ cánh bướm gồm Cẩm lai, Trắc…; Họ vang như Gõ đỏ, Gõ mật… và các loại rừng thứ sinh tre nứa và hỗn giao gỗ - tre nứa. Rừng trồng gồm keo, sao, dầu, thông và cây đa mục tiêu như Điều, Cao Su. Đồng vật rừng tương đối phong phú với nhiều loại lớp thu (khỉ, heo rừng, cheo..), lớp chim, lớp bọ sát (trăn, rùa, kỳ đà…).
Nhìn chung, tài nguyên rừng ở Quốc Oai khá phong phú, đặc biệt là trữ lượng rừng tương đối khá có thể khai thác phục vụ cho chế biến lâm sản, thủ công mỹ nghệ. Ngoài ra rừng ở Quốc Oai còn có giá trị bảo vệ cảnh quan môi trường, trong khai thác phục vụ phát triển du lịch.
2. Động vật rừng:
Có nhiều động vật sinh sống như khỉ, heo rừng, cheo, sơn dương, giúi, kỳ đà và một số loài khác, đã tạo ra sự đa dạng và phong phú về chủng loại... Tuy nhiên, gần đây do việc săn bắt bừa bãi nên phần nào đã ảnh hưởng đến sự đa dạng về chủng loại cũng như giảm số lượng động vật hoang dã trên địa bàn xã.
TÀI NGUYÊN DU LỊCH:
Trên địa bàn xã Quốc Oai hiện có một số cảnh quan đẹp và độc đáo đã được đưa vào quy hoạch để thu hút phát triển dịch vụ, du lịch như: Khu du lịch hồ thuỷ lợi thôn 5 (thôn Hà Phú) gắn với cảnh quan nhà thờ giáo xứ Đạ Nhar, khu du lịch dã ngoại trải nghiệm dọc suối đá Đạ Nhar, văn hoá của đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên và đặc biệt hầu hết đất lâm nghiệp của xã nằm trong vùng đệm của Vườn Quốc gia Cát Tiên với tính đa dạng sinh học hiện có và định hướng phát triển theo chiều hướng bảo tồn sẽ là những điều kiện thuận lợi để địa phương phát triển các loại hình du lịch sinh thái, dã ngoại, nghỉ dưỡng kết hợp với du lịch văn hoá.
Dưới đây là một số hình ảnh cảnh quan thu hút phát triển du lịch của xã Quốc Oai
Nhà thờ Giáo xứ Đạ Nhar
Suối Đạ Nhar - Khu lịch Danhar Glamping